HÒA THƯỢNG KHAI SƠN TU VIỆN HUỆ QUANG

Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng thế danh là Nguyễn Thanh Chẩm, sanh năm Đinh Tỵ (1917), niên hiệu Bảo Đại năm thứ 2, tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu; thân mẫu là cụ bà Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa-di-ni.

Là con trưởng trong gia đình gồm bảy anh em, ngài dìu dắt các bào đệ, bào muội bước vào lộ trình giải thoát như: TT.Thích Huệ Viên, trụ trì chùa Sơn Bửu,Vũng Tàu; TT.Thích Minh Cảnh, trụ trì tu viện Huệ Quang; Ni sư Thích nữ Như Trí (đã viên tịch năm 1978); Ni sư Thích nữ Như Diệu, trụ trì tu viện Diệu Đức, quận Bình Thạnh.


Cố HT.Thích Huệ Hưng khai sơn Tu Viên Huệ Quang


Vốn sanh trưởng trong gia đình trung lưu phúc hậu, nhiều đời kính tín Tam bảo, sâu trồng ruộng phước Tăng-già, ngài sớm nhận thức cảnh trần gian ảo mộng, cuộc đời giả huyễn vô thường. Ngài đến núi Sập để tìm nơi tu dưỡng, hằng ngày lo niệm Phật tụng kinh. Cơ duyên hội đủ, ngài được Tổ Vạn An (Sa Đéc) cho thế phát vào năm Mậu Dần (1938), lúc ấy vừa tròn 21 tuổi.

Năm Nhâm Ngọ (1942) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 27, Tổ Vạn An khai đàn trao giới, ngài chính thức thọ Sa-di. Vốn thông minh sẵn có và lòng khát ngưỡng Đại thừa, ngày đêm ngài tinh tấn tu hành, lo phụng trì chánh giới.

Năm Quý Mùi (1943), Tổ Vạn An biết ngài là bậc pháp khí Đại thừa, bèn quyết định cho thọ Tỳ-kheo Bồ-tát giới tại chùa Viên Giác ở Vĩnh Long. Sau đó ở lại chùa này học kinh luật trong mười tháng rồi qua chùa Phước Duyên ở Mỹ Tho tu học cho đến năm 1945, ngài vào học tại Phật học đường Lưỡng Xuyên - Trà Vinh được 6 tháng. Vì tình hình chiến sự trong nước, ngài phải trở về học với HT.Hành Trụ tại chùa Long An - Sa Đéc.

Cuối mùa đông năm Đinh Hợi (1947), ngài cầu học với HT.Thích Trí Tịnh tại Phật học đường Liên Hải - Sài Gòn.

Năm Tân Mão (1951), ngài dưỡng bệnh tại chùa Giác Nguyên - Khánh Hội (quận 4, TP.HCM), đồng thời dạy kinh pháp cho Tăng chúng. Cũng tại chùa Giác Nguyên này, ngài phiên dịch kinh Duy Ma Cật và Kim Cang giảng lục.

Năm Giáp Ngọ (1954), với hoài bão “Hoằng pháp là nhà, lợi sanh là sự nghiệp”, ngài đã phụ giúp HT.Thích Thiện Hòa, viện chủ chùa Ấn Quang giảng các bộ kinh Đại thừa.

Năm Ất Mùi (1955), ngài làm Phó Liên trưởng Hội Cực Lạc Liên Hữu do HT.Thích Trí Tịnh làm Chánh Liên trưởng.

Năm Bính Thân (1956), ngài sang Nam Vang dạy khóa hạ tại chùa Chuẩn Đề, khi trở về ngài được mời làm trụ trì chùa Kim Huê - Sa Đéc.

Năm Đinh Dậu (1957), Giáo hội Tăng già Nam Việt mở khóa huấn luyện trụ trì “Như Lai sứ giả” tại chùa Pháp Hội do HT.Thích Thiện Hòa làm Trưởng ban, ngài được mời đảm nhiệm Phó Trưởng ban kiêm Thư ký.

Năm Mậu Tuất (1958), ngài giảng dạy tại Phật học đường Phước Hòa - Trà Vinh.

Năm Canh Tý (1960), ngài mời TT.Thích Huệ Phát giữ chức vụ trụ trì chùa Kim Huê để ngài yên tâm nhập thất thiền định.

Năm Tân Sửu (1961) Đại giới đàn tại Vạn Thọ tự, phường Tân Định, Sài Gòn, ngài được cung thỉnh Giáo thọ A-xà-lê.

Năm Nhâm Dần (1962), ngài xây dựng thiền viện Tập Thành ở Bà Chiểu và làm Yết ma A-xà-lê truyền giới sư Đại giới đàn Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang.

Năm Giáp Thìn (1964), ngài được mời làm giới sư tại Đại giới đàn Việt Nam Quốc tự.

Từ năm Bính Ngọ (1966) đến Kỷ Dậu (1969), ngài làm giới sư truyền giới và giáo sư tại Phật học viện Cao đẳng Huệ Nghiêm và giảng kinh Viên Giác tại chùa Tuyền Lâm.

Năm Canh Tuất (1970), ngài khai sơn tu viện Huệ Quang rồi thường trụ và hành đạo tại đây. Ngài được mời làm giới sư tại các giới đàn: Linh Sơn cổ tự (phường Cầu Muối, quận Nhứt, Sài Gòn), tu viện Quảng Đức (huyện Thủ Đức, năm Tân Hợi - 1971), Huệ Quang, chùa Phật Ân - Mỹ Tho (năm Nhâm Tý - 1972), Phước Huệ - Nha Trang (năm Quý Sửu - 1973), Phật học viện Hải Đức, chùa Long Sơn - Nha Trang, Quảng Đức - Long Xuyên (năm Giáp Dần - 1974), tổ đình Ấn Quang (Ất Mão - 1975) và được mời làm thành viên Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cùng được suy cử làm Tổng lý Hội đồng Quản trị tổ đình Ấn Quang.

Từ năm Bính Thìn (1976) đến Canh Thân (1980), hai Đại giới đàn Quảng Đức và Thiện Hòa được mở ra tại chùa Ấn Quang, ngài được cung thỉnh làm Yết ma A-xà-lê.

Năm Mậu Ngọ (1978), Đại giới đàn tổ chức tại chùa Giác Sanh, quận 11, TP.HCM, ngài được cung thỉnh đương vi Yết ma A-xà-lê.

Năm Canh Thân (1980), Đại giới đàn tổ chức tại tổ đình Ấn Quang, ngài được cung thỉnh đương vi Yết ma A-xà-lê.

Năm Nhâm Tuất (1982), Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ I đề cử ngài giữ chức vụ Phó ban Trị sự kiêm Ủy viên Giáo dục Tăng Ni.

Năm Giáp Tý (1984), ngài là giới sư Đại giới đàn do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tại chùa Ấn Quang. Đồng thời, ngài được mời giảng dạy tại các trường hạ do Thành hội tổ chức cùng giữ chức Hiệu phó kiêm giảng viên Trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở 2.

Năm Đinh Mão (1987), Đại hội Phật giáo TP.HCM lần thứ II, ngài được tái cử chức vụ Phó ban Trị sự Thành hội. Mùa an cư năm đó, ngài làm Thiền chủ trường hạ do Thành hội tổ chức tại tổ đình Vĩnh Nghiêm. Tháng 10-1987, ngài dự Đại hội Phật giáo toàn quốc kỳ II tại Hà Nội. Ngài được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng và được đề cử làm Trưởng ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.

Năm Mậu Thìn (1988), ngài làm Yết ma A-xà-lê tại Đại giới đàn do Thành hội Phật giáo tổ chức lần thứ II tại chùa Ấn Quang.

Năm Kỷ Tỵ (1989), Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam được thành lập, ngài được cử làm Trưởng ban Phật giáo chuyên môn.

Cuộc đời hành hóa của ngài rất bình dị, chơn tu thật học, nghiêm trì giới luật, xiển dương Phật pháp bằng con đường giáo dục. Ngài là một luật sư giáo thọ của Tăng Ni, Phật tử trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Trong sự nghiệp tham thiền và giảng dạy, Hòa thượng đã phiên dịch: Kinh Duy Ma Cật, Kim Cang giảng lục, Lược sử Đức Lục tổ, Pháp môn tu chứng Lăng Nghiêm đại định, Kinh Phật Thuyết Đương Lai Biến, Kinh Phật Thuyết Diệt Tận, tập Tri kiến giải thoát. Đang soạn dịch Kinh Phạm Võng Hiệp Chú.

Theo năm tháng trôi qua, bốn đại tùy duyên thuyên giảm, ngài ngọa bịnh tại thiền sàng. Chẳng bao lâu Hòa thượng thu thần viên tịch vào ngày 28 tháng Giêng năm Canh Ngọ (23-2-1990).

Hoà thượng trụ thế 74 năm, với 46 hạ lạp. Bảo tháp ngài được xây dựng tại Đại Tòng Lâm - Bà Rịa để cùng đứng chung với các vị tiền bối đã kiến tạo nên cơ sở tổ đình Ấn Quang.